THANH VĂN VÀ BẬC ĐẠI BỒ TÁT ĐÃ CÓ SAI KHÁC NHIỀU CHƯA NÓI ĐẾN QUẢ VỊ PHẬT
Như dưới đây cư sỹ Lưu Tố Vân có giảng về sai khác giữa thần thông của hàng Nhị Thừa (Thanh Văn Duyên Giác) và Phật , Bồ Tát, tuy không nói Bồ Tát ở bậc nào nhưng khả năng lớn là Đẳng Giác Bồ Tát
SỰ SAI KHÁC NĂNG LỰC CỦA HÀNG THANH VĂN DUYÊN GIÁC SO VỚI PHẬT, BỒ TÁT
Trích PHẬT THUYẾT ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH
Phúc giảng lần thứ hai: Cô Lưu Tố Vân
Thời gian: 06/12/2020
Địa điểm: Tiểu viện Lục Hòa
Tập 32
Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh - Cô Lưu Tố Vân
ph.tinhtong.vn
....chúng tôi nói về chín điều khác biệt trong thần thông của Tiểu thừa so với thần thông của Phật Bồ-tát.
Thứ nhất, rộng hẹp không như nhau, phạm vi không như nhau. Thiên nhãn, thiên nhĩ của Thanh văn có thể thông đạt 2.000 cõi nước. Duyên giác thì thông đạt 3.000 cõi nước. Hiện tại trong kinh này nói đều có thể thông đạt ức na-do-tha trăm ngàn cõi Phật, không biết vượt hơn [Tiểu thừa] biết bao nhiêu lần.
Thứ hai, nhiều ít không như nhau. Tiểu thừa Thanh văn, Duyên giác, một tâm niệm của họ chỉ làm được một việc, không thể làm rất nhiều việc. Phật Bồ-tát có thể hóa hiện đến tất cả thế giới trong mười phương, đồng thời trong cùng một sát-na có thể hiện đủ loại thân: thân trời, thân tu-la, thân người, thân quỷ, thân súc sanh đều có thể hiện.
Thứ ba, lớn nhỏ không như nhau. Nhị Thừa hiện thân lớn, không thể đi vào không gian nhỏ, hiện thân nhỏ thì không thể chứa được thứ lớn. Phật Bồ-tát hiện thân lớn có thể khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, có thể khiến thân thể như vậy tiến vào bên trong một vi trần; cũng có thể hiện thân nhỏ như vi trần dung nạp đại thiên thế giới.
Thứ tư, nhanh chậm không như nhau. Thần túc thông của hàng Nhị thừa nếu muốn đến được nơi xa xôi thì cần phải có thời gian nhất định mới đến được. Phật Bồ-tát thì không như vậy, không cần thời gian, một niệm có thể đến mười phương thế giới.
Thứ năm, hư thực không như nhau. Nhị thừa A-la-hán chỉ hóa hiện được gần giống, không có thực dụng. Phật Bồ-tát hóa hiện đều có công dụng thực sự.
Thứ sáu, việc làm không như nhau. Người mà hàng Nhị thừa hóa hiện ra thì không khiến cho họ có tâm, Phật Bồ-tát có thể hóa hiện ra vô lượng người, có thể làm cho mỗi người đều có tâm, mỗi người đi làm công việc không như nhau. Khiến người khác cảm thấy mỗi người đều giống như người thật sự vậy, có tâm tư suy nghĩ, nhưng hàng Nhị thừa thì không làm được.
Thứ bảy, những gì hóa hiện ra không như nhau. Phật Bồ-tát chỉ hiện một thân nhưng có thể khiến mọi người nhìn thấy đủ loại người không như nhau. Có thể phát ra một âm thanh [nhưng lại] khiến mỗi người nghe mỗi khác. Còn có thể an trụ một chỗ mà hiện thân khắp mười phương, Nhị thừa thì không thể.
Thứ tám, công dụng của các căn không như nhau. Sáu căn của Bồ-tát có thể dùng thay nhau, mắt, tai, mũi, v.v... đều có thể dùng thay nhau, nhưng Nhị Thừa thì không được.
Thứ chín, tự tại không như nhau. Kinh Niết-bàn nói chư Phật Bồ-tát phàm làm việc gì thì thân tâm đều tự tại. Khi hiện thân lớn, tâm không tăng lớn theo; hiện thân nhỏ, tâm cũng không nhỏ theo. Hiện ra tướng vui vẻ, tâm cũng không vui theo; hiện tướng lo âu, tâm cũng không lo âu. Việc này Nhị thừa không làm được. Thần thông mà hàng Nhị thừa đắc so với điều này kém hơn nhiều như thế.
Nghe đến đây có đồng tu có thể sẽ hỏi, phàm phu chúng ta có thần thông hay không? Đáp án là chắc chắn có. Bởi vì thần thông là tự tánh. Vậy vì sao không thể hiển hiện ra được? Bởi vì tâm không thanh tịnh nên bị chướng ngại. Có người tâm thanh tịnh được một chút, thần thông đều có thể hiện tiền.
Xin nêu một ví dụ, khoảng chín năm về trước, có một lần tôi và vị chủ nhiệm chủ quản đi Trịnh Châu tham gia hội nghị công tác giám sát kiểm tra kỷ luật toàn quốc, hơn hai giờ chiều mới lên máy bay, buổi sáng tôi vẫn đi làm như thường. Đến trưa, ông nhà tôi đến phòng làm việc của tôi, đưa cho tôi một tờ giấy, ở trên viết những gì tôi nhớ không rõ, ông ấy nói với tôi, bà hãy mang theo tờ giấy này, đi họp xong nhất định phải đưa lại cho tôi. Tôi nghĩ thầm, thần kinh có vấn đề rồi, lại làm trò quái gở gì đây, nhưng tôi vẫn cầm lấy tờ giấy. Ông ấy rời khỏi phòng làm việc còn nhắc tôi một câu, đừng quên khi về phải trả tờ giấy cho tôi đó. Đi công tác về, tôi vừa bước vào nhà, câu đầu tiên ông ấy nói là, lúc bà đi thì máy bay gặp sự cố, tôi ngẩn người ra, máy bay thật sự là gặp chút sự cố, sao ông ấy lại biết được vậy? Ông ấy nói với tôi, tôi bảo bà trả tờ giấy nhỏ ấy lại cho tôi chính là để bà được bình an trở về, nếu không có tờ giấy nhỏ của tôi thì bà không quay về được đâu, tin hay không tin, tùy bà lựa chọn. Ông nhà tôi nói với bạn đồng tu rằng: những gì ông ấy biểu diễn là đại trí nhưng ra vẻ giống như thần kinh bất thường, điên rồ hay là thông đạt hãy tự mình chọn lấy. Tôi tin, bởi vì tâm ông ấy thanh tịnh.
Sanh đến thế giới Cực Lạc sẽ đạt được thần thông bất cộng của Đại thừa, lại có thêm nguyện lực thù thắng của đức Di-đà, cho nên siêu vượt hơn mức thông thường.
Túc mạng thông có thể tự biết những việc thiện ác đã làm trong vô lượng kiếp quá khứ. Ví dụ, khi Thế Tôn tại thế, có người đến xin xuất gia, chư đại đệ tử quán sát thiện căn của người này, đến tận tám vạn kiếp đều không gieo trồng thiện căn, thế là cự tuyệt và nói, không được, ông hãy đi đi, ông không có thiện căn, ông không thể xuất gia. Ông ấy liền rời khỏi, trên đường ông gặp được Thích-ca Mâu-ni Phật, ông nói với Phật ông muốn xuất gia, Thích-ca Mâu-ni Phật thu nhận ông, về sau ông đắc đạo.
Mọi người nói ông không có thiện căn. Phật nói, các ông không biết, trước đó tám vạn kiếp ông ấy là tiều phu, gặp phải hổ, ông ấy leo lên cây, hổ bỏ đi, ông ấy nhẹ nhàng niệm một câu “Nam mô Phật”. Do một niệm thiện căn này mà tám vạn kiếp sau ông ấy gặp được Thích-ca Mâu-ni Phật, lại còn xuất gia, lại còn đắc đạo.
Thần thông của Phật không có hạn lượng, vượt xa hết thảy A-la-hán. Sách Hội Sớ nói túc mạng thông có thể biết được túc mạng và những việc làm trong một đời, hai đời, ba đời cho đến trăm ngàn vạn đời của chính mình, cũng biết được túc mạng và những việc làm của mỗi chúng sanh trong lục đạo. Được thần thông này rất có lợi, nếu không biết túc mạng thì bạn chẳng sốt sắng làm thiện, chẳng biết sợ điều ác, vì vậy mà giải đãi.
A-la-hán nghĩ đến nỗi khổ đã chịu trong địa ngục mà toát mồ hôi, thậm chí toát mồ hôi máu, biết rằng thật đáng sợ. A-la-hán đã đắc thần thông nên không quên, còn chúng sanh thông thường đều quên hết, người trong địa ngục thì càng dễ quên. Trong địa ngục, lửa đốt cột đồng, họ nhìn thấy là một mỹ nữ nên đến ôm, vừa ôm vào thì thiêu khét chính mình; gió vừa thổi đến thì sống lại, sống lại rồi thì không nhớ nữa, lại nhìn thấy mỹ nữ, lại đến ôm, lại bị thiêu khét, biết bao vạn lần trong một đêm, rốt cuộc họ đều không nhớ. A-la-hán nhớ được, nghĩ đến thì toát mồ hôi máu, các ngài biết sự khủng khiếp nên không dám tạo ác nữa, các ngài còn vô cùng tha thiết khuyên nhủ mọi người.
Hơn nữa, biết được túc mạng thì sẽ không tự cao tự đại, biết rằng những công đức hoàn thành được trong quá khứ đều do sự gia trì của Phật. Chúng ta sở dĩ có thể vãng sanh chẳng phải do công đức của bản thân đầy đủ, mà nhờ thệ nguyện của A-di-đà Phật. Bạn hãy cộng tất cả những hạnh nghiệp trong nhiều đời của mình lại thì sẽ biết tội lỗi rất nhiều, công đức rất nhỏ bé yếu ớt. Ngày nay có thể có được nhân duyên thù thắng như vậy, hoàn toàn nhờ vào lực gia trì của Di-đà, mới biết rằng hoàn toàn dựa vào đức của Phật, mới sanh tâm cảm ân kính ngưỡng sâu sắc.