(Tiếp)
Xuất khẩu vũ khí của Hoa Kỳ tăng nhờ chiến tranh
“Chiến tranh là sức khỏe của nhà nước”, nhà văn cấp tiến người Mỹ Randolph Bourne đã nói như vậy giữa Thế chiến thứ nhất. Câu trích dẫn này nhấn mạnh cách chiến tranh bị các thế lực chính trị, giới cầm quyền và các tập đoàn lớn lợi dụng để củng cố quyền lực và kiếm lợi nhuận.
Câu trích dẫn này, mặc dù được viết cách đây hơn một thế kỷ, vẫn đúng trong bối cảnh Chiến tranh Ukraine.
Cuộc chiến kéo dài ba năm đã khiến hoạt động xuất khẩu vũ khí của Hoa Kỳ tăng lên.
Theo SIPRI, thị phần xuất khẩu vũ khí toàn cầu của Hoa Kỳ đã tăng từ 35% trong giai đoạn 2014-2019 lên 43% trong giai đoạn 2020-2024, tăng 21%, với việc xuất khẩu vũ khí tới hơn 100 quốc gia.
Đáng chú ý, mặc dù Hoa Kỳ luôn là một trong những nhà cung cấp vũ khí hàng đầu thế giới, nhưng đây lại là thị phần xuất khẩu vũ khí toàn cầu cao nhất của Hoa Kỳ.
Trong khi phần lớn số vũ khí này được chuyển đến Ukraine, các nước châu Âu khác cũng đã tăng lượng vũ khí nhập khẩu từ Hoa Kỳ kể từ khi chiến tranh bắt đầu vào tháng 2 năm 2022.
Năm 2024, tổng giá trị các mặt hàng quốc phòng, dịch vụ và hoạt động hợp tác an ninh được chuyển giao theo hệ thống Bán hàng quân sự ra nước ngoài (FMS) là 117,9 tỷ đô la Mỹ, tăng 45,7% so với mức 80,9 tỷ đô la Mỹ năm 2023. Năm 2022, Hoa Kỳ chỉ chuyển giao 50,9 tỷ đô la Mỹ giá trị thiết bị và dịch vụ quân sự cho các quốc gia khác theo thành phần FMS.
Vì vậy, chỉ trong vòng hai năm, từ năm 2022 đến năm 2024, doanh số bán dịch vụ và thiết bị quốc phòng của Hoa Kỳ cho các quốc gia khác theo chương trình FMS đã tăng hơn gấp đôi, từ 50,9 tỷ đô la Mỹ năm 2022 lên 117,9 tỷ đô la Mỹ năm 2024.
Tương tự, Doanh số bán hàng thương mại trực tiếp (DCS) tăng lên 200,8 tỷ đô la Mỹ vào năm 2024 từ mức 157,5 tỷ đô la Mỹ vào năm 2023, đánh dấu mức tăng 27,6%.
Chiến tranh Ukraine và các nhà thầu chính của Mỹ
Phần lớn các đơn đặt hàng xuất khẩu vũ khí mà các nhà thầu quốc phòng Hoa Kỳ nhận được theo cả hệ thống FMS và DCS, dễ hiểu là đều được chuyển đến các nhà thầu quốc phòng hàng đầu của Hoa Kỳ, còn được gọi là 'Big Five'.
Một bài nghiên cứu gần đây của William D. Hartung và Stephen N. Semler - 'Lợi nhuận từ chiến tranh: Những bên hưởng lợi nhiều nhất từ chi tiêu của Lầu Năm Góc, 2020–2024', lưu ý rằng các nhà thầu quốc phòng tư nhân đã đảm bảo được gần 2,4 nghìn tỷ đô la Mỹ trong các hợp đồng của Lầu Năm Góc trong giai đoạn này, chiếm hơn một nửa trong tổng ngân sách tùy ý 4,4 nghìn tỷ đô la Mỹ của Lầu Năm Góc.
Trong số này, khoảng 771 tỷ đô la Mỹ, tương đương một phần ba, đã được chuyển cho năm nhà thầu chính: Lockheed Martin (313 tỷ đô la Mỹ), RTX (145 tỷ đô la Mỹ), General Dynamics (116 tỷ đô la Mỹ), Northrop Grumman (81 tỷ đô la Mỹ) và Boeing (115 tỷ đô la Mỹ).
Lockheed Martin là công ty có doanh số vũ khí cao nhất
Tuy nhiên, con số này chỉ chiếm một phần trong tổng thu nhập của họ vì các công ty này còn kiếm được một khoản tiền đáng kể từ việc bán thiết bị ở nước ngoài.
Một bài báo gần đây của Jaibal Naduvath - "Sự đồng thuận tại Capitol: Nơi chiến tranh là kinh doanh", được công bố trên Quỹ Nghiên cứu Quan sát (ORF) cho biết vào năm 2024, doanh số bán thiết bị quốc phòng ở nước ngoài của các nhà thầu tư nhân đạt 318,7 tỷ đô la Mỹ. Con số này đánh dấu mức tăng hơn 30% so với năm trước, khi tổng doanh số đạt 238,4 tỷ đô la Mỹ.
.........
Xuất khẩu vũ khí của Hoa Kỳ tăng nhờ chiến tranh
“Chiến tranh là sức khỏe của nhà nước”, nhà văn cấp tiến người Mỹ Randolph Bourne đã nói như vậy giữa Thế chiến thứ nhất. Câu trích dẫn này nhấn mạnh cách chiến tranh bị các thế lực chính trị, giới cầm quyền và các tập đoàn lớn lợi dụng để củng cố quyền lực và kiếm lợi nhuận.
Câu trích dẫn này, mặc dù được viết cách đây hơn một thế kỷ, vẫn đúng trong bối cảnh Chiến tranh Ukraine.
Cuộc chiến kéo dài ba năm đã khiến hoạt động xuất khẩu vũ khí của Hoa Kỳ tăng lên.
Theo SIPRI, thị phần xuất khẩu vũ khí toàn cầu của Hoa Kỳ đã tăng từ 35% trong giai đoạn 2014-2019 lên 43% trong giai đoạn 2020-2024, tăng 21%, với việc xuất khẩu vũ khí tới hơn 100 quốc gia.
Đáng chú ý, mặc dù Hoa Kỳ luôn là một trong những nhà cung cấp vũ khí hàng đầu thế giới, nhưng đây lại là thị phần xuất khẩu vũ khí toàn cầu cao nhất của Hoa Kỳ.
Trong khi phần lớn số vũ khí này được chuyển đến Ukraine, các nước châu Âu khác cũng đã tăng lượng vũ khí nhập khẩu từ Hoa Kỳ kể từ khi chiến tranh bắt đầu vào tháng 2 năm 2022.
Năm 2024, tổng giá trị các mặt hàng quốc phòng, dịch vụ và hoạt động hợp tác an ninh được chuyển giao theo hệ thống Bán hàng quân sự ra nước ngoài (FMS) là 117,9 tỷ đô la Mỹ, tăng 45,7% so với mức 80,9 tỷ đô la Mỹ năm 2023. Năm 2022, Hoa Kỳ chỉ chuyển giao 50,9 tỷ đô la Mỹ giá trị thiết bị và dịch vụ quân sự cho các quốc gia khác theo thành phần FMS.
Vì vậy, chỉ trong vòng hai năm, từ năm 2022 đến năm 2024, doanh số bán dịch vụ và thiết bị quốc phòng của Hoa Kỳ cho các quốc gia khác theo chương trình FMS đã tăng hơn gấp đôi, từ 50,9 tỷ đô la Mỹ năm 2022 lên 117,9 tỷ đô la Mỹ năm 2024.
Tương tự, Doanh số bán hàng thương mại trực tiếp (DCS) tăng lên 200,8 tỷ đô la Mỹ vào năm 2024 từ mức 157,5 tỷ đô la Mỹ vào năm 2023, đánh dấu mức tăng 27,6%.
Chiến tranh Ukraine và các nhà thầu chính của Mỹ
Phần lớn các đơn đặt hàng xuất khẩu vũ khí mà các nhà thầu quốc phòng Hoa Kỳ nhận được theo cả hệ thống FMS và DCS, dễ hiểu là đều được chuyển đến các nhà thầu quốc phòng hàng đầu của Hoa Kỳ, còn được gọi là 'Big Five'.
Một bài nghiên cứu gần đây của William D. Hartung và Stephen N. Semler - 'Lợi nhuận từ chiến tranh: Những bên hưởng lợi nhiều nhất từ chi tiêu của Lầu Năm Góc, 2020–2024', lưu ý rằng các nhà thầu quốc phòng tư nhân đã đảm bảo được gần 2,4 nghìn tỷ đô la Mỹ trong các hợp đồng của Lầu Năm Góc trong giai đoạn này, chiếm hơn một nửa trong tổng ngân sách tùy ý 4,4 nghìn tỷ đô la Mỹ của Lầu Năm Góc.
Trong số này, khoảng 771 tỷ đô la Mỹ, tương đương một phần ba, đã được chuyển cho năm nhà thầu chính: Lockheed Martin (313 tỷ đô la Mỹ), RTX (145 tỷ đô la Mỹ), General Dynamics (116 tỷ đô la Mỹ), Northrop Grumman (81 tỷ đô la Mỹ) và Boeing (115 tỷ đô la Mỹ).
Lockheed Martin là công ty có doanh số vũ khí cao nhất
Tuy nhiên, con số này chỉ chiếm một phần trong tổng thu nhập của họ vì các công ty này còn kiếm được một khoản tiền đáng kể từ việc bán thiết bị ở nước ngoài.
Một bài báo gần đây của Jaibal Naduvath - "Sự đồng thuận tại Capitol: Nơi chiến tranh là kinh doanh", được công bố trên Quỹ Nghiên cứu Quan sát (ORF) cho biết vào năm 2024, doanh số bán thiết bị quốc phòng ở nước ngoài của các nhà thầu tư nhân đạt 318,7 tỷ đô la Mỹ. Con số này đánh dấu mức tăng hơn 30% so với năm trước, khi tổng doanh số đạt 238,4 tỷ đô la Mỹ.
.........