Quá trình trao đổi sẽ luôn đem lại những giá trị nào đó có ích đối với mỗi người.
Thế gian có 8 tỷ người, số người thực tu thì đếm trên đầu ngón tay, xét riêng với Phật Giáo. Những người như cụ Tuệ thuộc về số ít. Họ không phải là thứ mà thế gian bắt chước được, nhưng sự tồn tại của họ có ý nghĩa rất tích cực nếu người ta hiểu và nhìn nhận đúng. Hiện nay thì nhiều vấn đề đang bị che mờ bởi các khía cạnh chính trị và tôn giáo đương thời. Nhưng theo bộ lọc thời gian, nhiều thứ sẽ được làm sáng tỏ.
Vẫn chỉ là một câu thôi, trường hợp cụ Tuệ đòi hỏi sự tĩnh lặng và chiêm nghiệm.
Đây là bài em viết nghiêm túc về vấn đề này cuối năm ngoái, cụ đọc tham khảo vài ý:
"
ĐÔI ĐIỀU CHO NĂM CŨ NHÂN SỰ KIỆN ĐI SANG ẤN CỦA NGƯỜI BỘ HÀNH TỰ XƯNG MINH TUỆ.
Những ngày cuối năm, tạm gọn vài việc nên viết đôi điều dành cho năm cũ, liên quan đến một công dân hành hương về thánh tích Phật giáo bên Ấn Độ. Để có tính chính danh thì mình là người mến mộ Phật giáo cũng quãng 20 năm nay. Trong một dịp tham dự lễ kỷ niệm lễ 700 ngày mất Phật Hoàng Trần Nhân Tông tại Yên Tử cùng một số người bạn thân và được khuyến khích, mình đăng ký và trở thành người cư sỹ tại gia từ 2008 tại thiền viện Trúc Lâm Yên Tử. Vì vậy, những chia sẻ này trình bày theo quan điểm của người có tính chính danh bên Phật giáo.
Thứ nhất, không phải bây giờ mà từ đầu năm 2024, bản thân mình đã lấn cấn vì người bộ hành tự xưng Thích Minh Tuệ khi ông không nhận là là thầy, sư, cũng không nhận là cư sỹ theo môn phái, hệ phái nào dù là nam tông, bắc tông, thiền, tịnh, mật tông... Nhưng ông ăn mặc thực hành giống một nhà sư. Về tính chính danh ông không là một người thuộc tôn giáo nào, từ phát ngôn của ông và từ chính GHPG VN với sự kiện ra văn bản chính thống. Như vậy, sự khởi đầu về hình ảnh của ông bắt nguồn từ sự hơi lắt léo trong tư duy, ông không nhận nhưng gọi những người làm giống mình là sư phụ, là thầy. Còn cơ bản, như ông nói, ông có thiện cảm và muốn tự học và thực hành theo người sáng lập ra phật giáo là ngài Thích Ca. Đối với mình, đây là điểm không chính danh cho nên ngay từ những ngày đầu không quá để tâm, chỉ thi thoảng để ý xem có sự vụ gì xôn xao.
Thứ hai, người mến mộ phật giáo thì hiểu giá trị của đạo lý này nằm ở ba điều là ngài Thích Ca, đã nhập diệt gần 2,600 năm, Ngài chỉ còn biểu tượng là các bức tượng trong các ngôi chùa và các nguyên lý, chân lý về sự thật của tâm hay tâm linh nói chung mà đa phần người theo hướng về; Giáo Pháp nằm ở nơi các bài kinh, sách luật, luận; và các Nhà Sư là người đang cố gắng thực hành theo giáo pháp, một số nhà sư cũng giảng pháp và họ hầu như đều ở trong các ngôi chùa, tịnh xá, thiền viện... Với thời gian đã dài, cách xa thời ngài Thích Ca còn tại thế, phật giáo lan truyền qua nhiều thế hệ đến ngày hôm nay thì giáo lý lõi, những công hạnh đúng với giáo pháp sẽ có người thực hành đúng, người chệch, người nhiều người ít. Và kinh sách được kể lại, giảng lại, dịch chuyển ngữ lại cũng rất khó truyền tải được giá trị lõi, tinh túy uyên áo với khối lượng kinh sách, giáo luật quá đồ sộ. Bất cứ một cá nhân một nhà sư, hay cư sĩ nào có đóng góp lớn trong đạo cũng đều chỉ xem mình góp một bàn tay nhỏ bé trong dòng chảy giáo lý chung ấy hơn 2,600 năm qua. Chúng ta không phủ nhận, ngày càng nhiều người gồm cả tu sĩ và cư sĩ gặp khó khăn trong việc hiểu đúng và thực hành đúng giáo lý quá lớn, quá đồ sộ và bị phân nhánh thành nhiều hệ phái nên vô tình, vô ý, tư duy không đúng và thực hành sai. Và điều này có thể thông cảm vì chính thời Phật còn tại thế, cũng có nhiều người phàm tăng, phàm cư sĩ làm không đúng mà từ đó giới luật sau một thời gian mới được chế ra, bổ sung dần. Ban đầu các đệ tử đa phần xuất chúng, tự động thu xếp việc hành đạo theo Phật mà ít phát sinh sự việc gì, nên chưa hình thành giới luật. Những tháng ngày đầu tiên của dòng chảy phật giáo chưa có Giới Luật. Tuy vậy, giá trị của phật giáo ở Việt Nam còn tồn tại cho ai đó hiện tại và mai sau tìm hiểu, tham khảo là nhờ Phật, Pháp và Tăng nằm trong các ngôi chùa được duy trì, tiếp nối qua nhiều thế hệ và chắc chắn được gìn giữ bởi nhiều nhà sư hay cư sĩ đã cố gắng thực hành đúng ở mức nào đó theo lời Phật dạy. Nếu không thì Phật giáo ở VN đã biến mất hoặc gần như biến mất ở nhiều nước như Nhật, Hàn, Trung Quốc, thậm chí ở Ấn Độ. Việc ông Minh Tuệ từng vào chùa sau đó từ bỏ danh xưng, tính chính danh và ra ngoài tạo một hình tướng giống tăng sỹ cố gắng thực hành theo lời Phật dạy và được truyền thông tiếp sức đưa tin gần như một hình thức ly khai khỏi tăng đoàn. Ông không còn kết nối với bất cứ thầy, chùa nào theo tính chất trao truyền, tiếp nối truyền thống nữa. Việc ông làm này không có pháp luật nào điều chỉnh vì vẫn nằm trong khuôn khổ tự do tôn giáo, cũng không có giáo luật nào ràng buộc với tinh thần tự giác, tự do của phật giáo nhưng rõ ràng nó tạo sự chia rẽ với điều gọi là mạch nguồn, hay dòng chảy phật giáo nói chung ở trên. Dù có vài clip ông đến chùa nào đó, có lễ Phật, nhưng về phát ngôn của ông không thấy có sự kết nối hay tiếp nối nào cho Phật, Pháp và Tăng vốn đang nằm trong các ngôi chùa, trong hệ thống tăng đoàn chính thống. Cá nhân ai cũng sẽ đến lúc dừng lại theo cách nào đó, ông ấy cũng vậy, tất cả rồi sẽ biến mất. Di sản của những bước chân bộ hành, chiếc lõi nồi cơm hay những chiếc áo vá đủ màu rồi sẽ thành cát bụi và cuốn bay theo thời gian. Mình từng nói với một người bạn thân, có vẻ mến mộ ông ấy rằng, giá như trên mỗi chặng đường không ấy đi bộ nam bắc, mỗi khi dừng chân qua đêm trên lộ trình nào đó mà gần môt ngôi chùa, ông chỉ xin các sư, thầy trụ trì của chùa đó nghỉ qua đêm tại ngay nơi cổng hay sân chùa nào đó, là đủ để ông tạo nên sự hòa hợp tăng dù chẳng cần phát ngôn thêm một lời nào. Không có cảm giác của sự ly khai tăng đoàn mà ông vẫn âm thầm song hành với Phật Pháp Tăng theo một cách thức riêng và trong sự hòa hợp. Tiếc là không thấy có điều đó, và ông còn phát ngôn “trụ trì thì không giải thoát”. Ngài Thích Ca xưa sau khi giác ngộ đã đứng lặng yên nhìn cây bồ đề 7 ngày để tỏ lòng biết ơn cội cây đã trợ duyên cho mình suốt 49 ngày thành đạo. Là người trong đạo, mình cảm giác như ông M.T đang quay lưng lại với với chính cái dòng chảy mà ông nhờ đó biết đến phật giáo.
Thứ ba, với những điểm như trên, có thể thấy phật giáo là giáo lý bao la sâu kín khó học hiểu và thực hành đúng đến thế nào. Nhưng để đơn giản hóa câu chuyện, và bàn luận theo đúng hiểu biết hạn hẹp của người tại gia, mình tạm quy vấn đề theo cách tóm lược lại giáo lý trong con đường trung đạo hay Bát Chánh Đạo (thấy biết đúng, nghĩ đúng, nói đúng, làm đúng, kiếm sống đúng, nỗ lực đúng, ghi nhận đúng và định đúng) mà Phật đã tìm ra, thấy ra Sự Thật và Chân Lý sau khi từ bỏ khổ hạnh cực đoan đến suýt mất mạng sau gần 6 năm. Và ông MT cũng nói là đang học tập nên mình lại lược gọn giáo lý ở mức tối giản nhất ở câu pháp cú: Làm lành, lánh giữ và giữ tâm ý thanh tịnh. Như vậy, có thể hiểu là một người thực hành theo phật giáo nói chung thì nhân sẽ chủ về làm việc thiện, điều lành để đi theo con đường Bát Chánh. Làm Lành nó là điều kiện cần, việc lánh dữ nó là điều kiện đủ. Việc lánh dữ cũng là một cách hiểu ngắn gọn của Giữ Giới. Giới nó là một biểu hiện tự nhiên thể hiện ra, nó không phải nhân chủ đạo của con đường bát chánh. Ví dụ một người được ngợi ca vì nỗ lực cứu giúp một người chứ không ai tán thán một người vì đã không hại mạng ai đó. Một cá nhân siêng năng giúp người thì nó tự biểu hiện ra người đó không có tâm ý làm hại, làm phiền người khác. Việc ông MT chủ trương Trì Giới, thực hành Hạnh Đầu Đà, dù hạnh này không hoàn toàn giống với ngài Ca Diếp là người SAU khi đắc đạo thì xin phép Phật duy trì lối sống khổ hạnh để làm gương cho cư sỹ và chư tăng và cũng là một phép so sánh với các pháp môn khổ hạnh thời đó rất nhiều để cho thấy tu sỹ Phật giáo cũng có thể kham nhẫn khổ hạnh, nhưng đó không phải chủ trương. Ngài Ca Diếp là 1 người trong 10 người đại đệ tử của ngài Thích Ca, 9 vị khác không hành hạnh đầu đà. Việc chủ trương trì giới hành hạnh đầu đà khi ông phát ngôn cho thấy ông M.T đang có thể hiểu lầm, tư duy chưa phù hợp với con đường bát chánh mà đức Thích Ca để lại. Giới không phải mục đích, không phải là nhân của con đường bát chánh để đi đến giải thoát rốt ráo. Lấy giới là mục đích thực hành là một sự chấp thủ, tư duy tạo nhân để gặt quả trong ý thức, chỉ hình thành nên sự luân hồi tái sinh trong tâm thức. Đây là những chia sẻ theo hiểu biết cá nhân về mặt giáo lý, không có ý phê phán ông MT vì khi tìm hiểu giáo lý, mình biết tất cả ai cũng có thể có chỗ hiểu nhầm, hiểu sai. Chỉ những vị đi đến chánh định của tứ thiền, chấm dứt lậu hoặc, xóa vô minh mới hết sai lầm. Bản thân mình cũng còn nhiều chỗ hiểu chưa đúng và vẫn luôn tiếp cận mọi thứ với tâm cởi mở học hỏi. Đây là những lộ trình thuộc về Tâm, về Tuệ vốn phức tạp của ông người mà khoa học công nghệ hay trí tuệ nhân tạo vẫn còn để ngỏ, chưa giúp ích gì được.
Cuối cùng, việc đi bộ sang Ấn Độ có gì đặc biệt không? Ở VN từng có tu sỹ tam bộ nhất bái (3 bước lạy 1 lạy) từ thành phố HCM tới Yên Tử, cũng gọi là thánh tích ở VN. Đây cũng là hạnh khó làm, nhưng với mình cũng là ý nguyện, là trải nghiệm riêng của vị đó thôi, cũng không nói đúng sai, nó chỉ không phải phương pháp chung của con đường bát chánh. Cho nên ông MT cũng vậy, đi bộ xin ăn hay đi xe, tự nấu ăn chỉ là phương tiện dụng Thân, không phải mục đích cứu cánh của việc tu học vốn chú trọng về Tâm. Phật thì nhập diệt lâu rồi, không còn ở Ấn Độ nữa, các thánh tích cũng chỉ còn là địa danh có thể có năng lượng thiện lành do nhiều người dùng tâm thiện hướng về. Nhiều người đi thăm viếng về rồi cũng vẫn y nguyên, không đổi khác gì nhiều. Vì vậy, câu chuyện ông Minh Tuệ sang thánh tích Ấn Độ với mình cũng vậy, không thấy lợi ích gì lắm cho một hành giả. Thôi thì, cứ xem ông ấy như một hành giả tập học như lời ông ấy nói.
".