vâng cụ, cuốn này luôn có trong list cho người Việt kiểu như "phải đọc trước khi chết", "chọn mang lên tàu Noah trong cơn đại hồng thuỷ"
có điều đọc xong, lại thấy lòng ngẩn ngơ buồn rầu tiếc nhớ, không lẽ trên thế gian này thực sự có một Hà Nội từng như thiên đường như thế...., rồi lại nhìn ra cửa sổ, đau lòng ngắm Hà Nội ô trọc, xô bồ, khói bụi ô nhiễm nhất Thế giới chiều nay
"Trong lời dẫn nhập đằm thắm và tinh tế, Giáo sư Hoàng Như Mai gọi "Thương nhớ mười hai" là một bản giao hưởng những “thời trân” – những thức quà quý báu của ký ức, của một thời đã xa mà vẫn sống động trong tim. Và quả đúng như thế, Vũ Bằng đã viết nên thiên tùy bút chan chứa thương yêu này từ nơi phương Nam nắng gắt, để gửi trọn hồn mình về miền Bắc gió heo may, về người vợ hiền, về mảnh đất Hà Nội yêu dấu. Mười một năm xa cách là mười một năm chắt chiu từng con chữ bằng nỗi nhớ quay quắt đến tận cùng, từng dòng văn như thấm đẫm nước mắt của người xa xứ “không biết chừng nào là nhớ, nhớ sao mà nhớ quá thế này!”.
Trong nỗi niềm ấy, từng trang sách như được dệt nên bởi hương cốm đầu mùa, sắc hoa đào phai, tiếng trống chèo xa xăm đêm xuân, hơi thở nhè nhẹ của gió bấc trên vòm lá ngô đồng. Vũ Bằng đã không chỉ viết bằng ngòi bút, mà bằng trái tim thổn thức, bằng ký ức ngọt ngào cất giữ trong từng mạch máu. Mỗi phần của tác phẩm là một tháng trong năm – mười hai khúc tình ca rưng rưng nhớ thương, như mười hai đoá hoa dâng lên cho đất mẹ Bắc Việt, cho Hà Nội – nơi từng hơi thở cũng có thể khiến lòng người chùng xuống.
Tháng Giêng – trăng non và rét ngọt, tháng Hai – sắc đào phai và dư âm ngày Tết, tháng Ba – nàng Bân còn vấn vít áo bông, tháng Tư – mơ một dòng suối Mường róc rách, tháng Năm – rượu nếp hương ngạt ngào, tháng Sáu – nhãn lồng Hưng Yên ngọt lịm, tháng Bảy – tiếng kinh rằm xá tội vong nhân, tháng Tám – chiếc lá rụng đầu thu, tháng Chín – cốm xanh duyên dáng cùng hồng chín, tháng Mười – mưa phùn lất phất trong heo may, tháng Một – những đêm xuân muộn quây quần chuyện vặt, tháng Chạp – náo nức chợ Tết, thổn thức lòng người.
Không chỉ là bức tranh bốn mùa, "Thương nhớ mười hai" là một cuốn lịch cảm xúc, là dòng hồi tưởng mềm mại như dải lụa vắt qua ký ức. Những câu văn tưởng như đơn sơ lại ôm trọn cả một Hà Nội – với sương sớm bảng lảng, với tiếng rao đêm văng vẳng, với gánh hàng rong chênh chao ký ức. Từng tiết trời, từng món ăn, từng cử chỉ nhỏ bé của người Hà Nội xưa đều được nhà văn gói ghém lại trong thứ ngôn ngữ tinh tế đến nao lòng. Đó là những “mùa nào thức ấy” nhưng không chỉ là mùa của trời đất, mà là mùa của tâm hồn, của tình cảm người đi xa gửi về quê cũ.
Chỉ riêng cảnh tháng Một – “mẻ ngô rang mà khề khà ăn gần hết đêm”, hay tiếng gậy tre khua qua ngõ lầy đi bàn chuyện tầm phơ – cũng đủ làm người đọc ứa nước mắt nhớ về những ngày Hà Nội còn mộc mạc, còn tình người ấm áp. Để rồi tháng Chạp lại khiến người ta cười nghẹn ngào trong nước mắt khi đọc lời dặn vợ “thôi năm nay ăn đơn giản thôi em nhé”, mà rồi cả nhà vẫn náo nức, vẫn tất bật từ đầu tháng, như một lễ hội của tình thân, như một bản tình ca của đời sống.
Đó chính là cái hồn Hà Nội – không ồn ào, không phô trương, mà thẳm sâu, bền chặt, thanh tao. Hồn ấy không chỉ thấm vào từng nếp nhà, từng dáng phố, mà chảy trong từng dòng văn Vũ Bằng, khiến mỗi cảnh vật nhỏ nhoi cũng hóa thành biểu tượng của tình yêu, của nỗi nhớ, của một miền đất không thể nào quên.
“Thương nhớ mười hai” vì thế không chỉ là một áng tùy bút, mà là một áng văn tình. Tình quê, tình người, tình vợ chồng, tình Hà Nội – tất cả quện lại như khói lam chiều bảng lảng, như hơi ấm của chén trà sen, như tiếng chuông chùa ngân nga trong buổi hoàng hôn. Đọc Vũ Bằng mà tưởng như đang bước đi trên con phố nhỏ Hà Nội, giữa tiết trời tháng Giêng, nghe lòng mình mềm lại vì một nỗi nhớ dịu dàng mà thẳm sâu vô cùng. Và rồi ta thổn thức tự nhủ: “Càng nhớ như vậy thì càng yêu Hà Nội biết bao nhiêu, lại càng say đắm Bắc Việt biết bao nhiêu!”.