[Funland] Liệu có kiếp sau

manhcsic

Xe điện
Biển số
OF-67865
Ngày cấp bằng
7/7/10
Số km
2,417
Động cơ
1,277,728 Mã lực
1. E cũng không hiểu lắm lĩnh vực này, nó rộng mà trìu tượng quá. Chém gió quá hóa lố. Nên mang tâm thế tiếp thu
2. Cũng sợ các vị ý không muốn trao đổi nữa, nhõn 1 hướng thuần túy khoa học thì nó đang quá hạn chế, cái biết được nó nhỏ bé quá.
Cũng có thể trong này có 1 vài ẩn sỹ, họ Pháp thí đc thêm luận điểm nào thì cũng hay

Trong này có cụ nói là kiểu ta như con Bò trước các đấng siêu nhiên thì e thấy là

Nếu bản chất tạo hóa sinh ra là thấp kém như thế, các vị siêu năng lực thì cứu giúp tôi, tôi có muốn thế đâu

vd: tôi là bò trí tuệ không có, não phẳng lì, thì khai quang điểm nhãn cho tôi, hoặc ngôn ngữ của các vị khó hiểu quá thì dùng pháp lực chuyễn ngữ để tôi có thể hiểu được. Các vị vô biên mà
Chứ giờ bảo: do mày kiếp trước thế này, nên giờ phải sinh ra là bò, phải ăn cỏ, phải kéo cày trả nợ, phải bị giết. Còn thuyết pháp, nói ntnay do duyên mới hiểu đc thì bao nhiêu con bò có duyên để hiểu???
Thực là: tôi còn chưa biết đc là đúng như thế không? và có thật thế không?
đây là các vị bảo tôi như thế, thì tôi cũng biết tôi như thế.
Tức là tôi chưa ý thức đc việc phạm tội, tôi đã phải đi cải tạo rồi
và cứ cải tạo đến hết đời tôi cũng chưa biết có được tha không..... :D ???

Còn chưa kể gặp thêm lũ ma Tăng thì thôi rồi
Kiểu như trước mạng có đưa truyện 1 cháu gái không may chết do tai nạn hay bệnh tật gì đó, bme lên chùa cầu siêu. 1 mụ giải thích là do kiếp trước nó abc, nên kiếp này phải bị như thế như thế (xem đoạn đó muốn chửi bậy quá)

Rút cục lại là nếu có thể các vị độ luôn cho chúng sinh 1 kiếp này đi, chứ 1 đời người 70-100 năm làm gì là nhiều tội lỗi phải bị trừng phạt thế.
1. Bò nếu lắp não (trí tuệ) bò sẽ có ký ức, tưởng tượng, so sánh, lo âu... bò sẽ biết khổ đau. Bò tìm cách thoát khỏi khổ đau sẽ đi tìm đạo.
2. AI siêu trí tuệ, không có cảm thọ, không có khổ, không hạnh phúc, không có nhu cầu giải thoát giác ngộ.
3. Con người có nhiều quyền chọn, nhiều cơ hội gần hay xa Phật là tùy chọn
Trong thiền tông nói “Trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật" nghĩa là nhấn mạnh tính một chiều vô điều kiện. Đọc đến đây hỏi "Vì sao" là bám chấp, "Vậy à" là Phật ngày khoảnh khắc đó. Đọc lúc nữa nhũng não vì khó hiểu "Tại sao"
Hỏi: Nếu hỏi Bò, Ngườì hay AI gần Phật hơn
Đáp:
AI gần Phật hơn người.
Bò gần Phật hơn AI.
Con giun gần Phật hơn cả bò.
Hỏi: Tại sao
Đáp: Ngươi còn muốn vì sao, ngươi xa Phật nhất.
 

XPQ

Xe ba gác
Biển số
OF-25733
Ngày cấp bằng
13/12/08
Số km
20,010
Động cơ
587,187 Mã lực
Nơi ở
Trỏng
Thỏ hiểu chứ nhưng Bí- Trí - Dũng .
Tâm không bám!

Có một câu rất hay của cụ thân phụ bác AQ, hội đủ Bi Trí Dũng, em nhớ đại ý hoặc em xiên tạc theo cách hiểu của em:

Quắc mắt coi khinh nghìn lực sĩ
Khom lưng làm ngựa đứa nhi đồng

Có những giá trị chung mà các tôn giáo hay mọi cá nhân đều hướng đến. Không nhất định phải lằng nhằng dây điện tu tủng thiền thủng ngộ ngủng các thứ mọi cái.
 

tomza

Xe buýt
Biển số
OF-538143
Ngày cấp bằng
22/10/17
Số km
790
Động cơ
37,207 Mã lực
Nơi ở
Chủ yếu trong nhà
1. E cũng không hiểu lắm lĩnh vực này, nó rộng mà trìu tượng quá. Chém gió quá hóa lố. Nên mang tâm thế tiếp thu
2. Cũng sợ các vị ý không muốn trao đổi nữa, nhõn 1 hướng thuần túy khoa học thì nó đang quá hạn chế, cái biết được nó nhỏ bé quá.
Cũng có thể trong này có 1 vài ẩn sỹ, họ Pháp thí đc thêm luận điểm nào thì cũng hay

Trong này có cụ nói là kiểu ta như con Bò trước các đấng siêu nhiên thì e thấy là

Nếu bản chất tạo hóa sinh ra là thấp kém như thế, các vị siêu năng lực thì cứu giúp tôi, tôi có muốn thế đâu

vd: tôi là bò trí tuệ không có, não phẳng lì, thì khai quang điểm nhãn cho tôi, hoặc ngôn ngữ của các vị khó hiểu quá thì dùng pháp lực chuyễn ngữ để tôi có thể hiểu được. Các vị vô biên mà
Chứ giờ bảo: do mày kiếp trước thế này, nên giờ phải sinh ra là bò, phải ăn cỏ, phải kéo cày trả nợ, phải bị giết. Còn thuyết pháp, nói ntnay do duyên mới hiểu đc thì bao nhiêu con bò có duyên để hiểu???
Thực là: tôi còn chưa biết đc là đúng như thế không? và có thật thế không?
đây là các vị bảo tôi như thế, thì tôi cũng biết tôi như thế.
Tức là tôi chưa ý thức đc việc phạm tội, tôi đã phải đi cải tạo rồi
và cứ cải tạo đến hết đời tôi cũng chưa biết có được tha không..... :D ???

Còn chưa kể gặp thêm lũ ma Tăng thì thôi rồi
Kiểu như trước mạng có đưa truyện 1 cháu gái không may chết do tai nạn hay bệnh tật gì đó, bme lên chùa cầu siêu. 1 mụ giải thích là do kiếp trước nó abc, nên kiếp này phải bị như thế như thế (xem đoạn đó muốn chửi bậy quá)

Rút cục lại là nếu có thể các vị độ luôn cho chúng sinh 1 kiếp này đi, chứ 1 đời người 70-100 năm làm gì là nhiều tội lỗi phải bị trừng phạt thế.
Ma tăng thời nào cũng có, vụ đó bậy bạ quá, chúng tìm cách lừa đảo kiếm tiền, còn nhiều những vụ khác nữa, cụ muốn chửi bậy, em muốn nó bị truy tố. Gạt việc đó sang 1 bên, với chủ đề thớt này, khi chưa thống nhất chung về khái niệm, về nguồn trích dẫn khả tín, thì mọi việc không bước qua được sự chém gió phóng giật mà thôi, cụ ây.

Em không đọc còm về ví dụ con bò mà cụ nói, nhưng mọi ví dụ hay ngôn lời là thể hiện tâm thức của người nói, còn sự thật biểu hiện qua đó được bao nhiêu % thì cụ cứ ngẫm, nếu thấy ít quá, thì bỏ qua. Cứ chắt lọc, tự ngẫm để rồi tự mình chứng nghiệm ra sự thật thôi, ai độ được cho ai đâu.

Chắc cụ lại muốn hỏi Sự thật là gì, Sự thật là lời dạy của Đức Phật qua Tứ diệu đế, Bát chánh đạo qua bao năm vẫn còn truyền lại; là có những nhóm người lợi dụng nó để huyền hoặc, lừa đảo bày vẽ để kiếm tiền tươi; là những người học thuộc nó rồi tưởng là vậy mình biết rồi, giỏi rồi mà thiếu đi sự thực chứng… Sự thật đó cũng phong phú đa dạng như thiên nhiên cậy cỏ, muôn thú quanh ta, khà khà.

PS: À sự thật là em chém gió cho vui nữa, khà khà
 

HTlangtu

Xe điện
Biển số
OF-486386
Ngày cấp bằng
3/2/17
Số km
3,062
Động cơ
261,419 Mã lực
Có một câu rất hay của cụ thân phụ bác AQ, hội đủ Bi Trí Dũng, em nhớ đại ý hoặc em xiên tạc theo cách hiểu của em:

Quắc mắt coi khinh nghìn lực sĩ
Khom lưng làm ngựa đứa nhi đồng

Có những giá trị chung mà các tôn giáo hay mọi cá nhân đều hướng đến. Không nhất định phải lằng nhằng dây điện tu tủng thiền thủng ngộ ngủng các thứ mọi cái.
Câu thơ của Lỗ Tấn này có nhiều dị bản nhỉ?
Trước e nghe qua 1 bộ phim của Tàu có cậu trai thi như: "đường lên đỉnh Olympia" thấy đọc nó là:
"Ngẩng mặt coi khinh ngàn lực sỹ
Cúi đầu làm ngựa đứa hài nhi"
 

belo

Xe điện
Biển số
OF-76592
Ngày cấp bằng
29/10/10
Số km
3,636
Động cơ
815,278 Mã lực
Nơi ở
Da nang
Có một câu rất hay của cụ thân phụ bác AQ, hội đủ Bi Trí Dũng, em nhớ đại ý hoặc em xiên tạc theo cách hiểu của em:

Quắc mắt coi khinh nghìn lực sĩ
Khom lưng làm ngựa đứa nhi đồng

Có những giá trị chung mà các tôn giáo hay mọi cá nhân đều hướng đến. Không nhất định phải lằng nhằng dây điện tu tủng thiền thủng ngộ ngủng các thứ mọi cái.
Cụ biết mục đích của Duy Thức tông không, dành cho ai là chính, để làm gì.
 

XPQ

Xe ba gác
Biển số
OF-25733
Ngày cấp bằng
13/12/08
Số km
20,010
Động cơ
587,187 Mã lực
Nơi ở
Trỏng
Cụ biết mục đích của Duy Thức tông không, dành cho ai là chính, để làm gì.
Bác hỏi câu này thì em chịu, em chưa từng đọc thấy chỗ nào giảng về mục đích của các ngài khi phát triển lý luận Duy Thức. Nếu ý kiến cá nhân thì em giả định đó là sự cần thiết đào sâu tri thức để phát triển nền tảng lý luận, làm cơ sở để tu hành cho tinh tấn. Như em biết, đông tây triết luận có 3 ngành Duy tâm thì Duy thức là một ngành rất lớn chủ cho triết đông. Thành tựu Vĩ đại đó!
Em nhớ thoạt đầu khi đọc "Phật giáo tư tưởng luận" của bác sĩ Taiken do Cụ Quảng Độ dịch, có đoạn kể về quá trình xây dựng lý luận Duy Thức đưa ra ví dụ thời đó ở Ấn Độ có một loại bệnh về mắt mà ai bị thì nhìn cái gì màu đỏ cũng ra vàng khè. Những người lớn mới mắc thì họ biết cái gì vốn đỏ nay thành vàng nhưng người bị từ bé thì vàng tất. Câu hỏi đặt ra là vậy vàng hãy đỏ là do tự nó thế hay người mình nhận thấy thế? Thế là ngành Duy Thức ra đời.
 

belo

Xe điện
Biển số
OF-76592
Ngày cấp bằng
29/10/10
Số km
3,636
Động cơ
815,278 Mã lực
Nơi ở
Da nang
Bác hỏi câu này thì em chịu, em chưa từng đọc thấy chỗ nào giảng về mục đích của các ngài khi phát triển lý luận Duy Thức. Nếu ý kiến cá nhân thì em giả định đó là sự cần thiết đào sâu tri thức để phát triển nền tảng lý luận, làm cơ sở để tu hành cho tinh tấn. Như em biết, đông tây triết luận có 3 ngành Duy tâm thì Duy thức là một ngành rất lớn chủ cho triết đông. Thành tựu Vĩ đại đó!
Em nhớ thoạt đầu khi đọc "Phật giáo tư tưởng luận" của bác sĩ Taiken do Cụ Quảng Độ dịch, có đoạn kể về quá trình xây dựng lý luận Duy Thức đưa ra ví dụ thời đó ở Ấn Độ có một loại bệnh về mắt mà ai bị thì nhìn cái gì màu đỏ cũng ra vàng khè. Những người lớn mới mắc thì họ biết cái gì vốn đỏ nay thành vàng nhưng người bị từ bé thì vàng tất. Câu hỏi đặt ra là vậy vàng hãy đỏ là do tự nó thế hay người mình nhận thấy thế? Thế là ngành Duy Thức ra đời.
Cảm ơn cụ. Quá hay.
 

manhcsic

Xe điện
Biển số
OF-67865
Ngày cấp bằng
7/7/10
Số km
2,417
Động cơ
1,277,728 Mã lực
Ngôn ngữ không phù hợp
Cấm viết bài trong thớt
 
Chỉnh sửa bởi quản trị viên:

belo

Xe điện
Biển số
OF-76592
Ngày cấp bằng
29/10/10
Số km
3,636
Động cơ
815,278 Mã lực
Nơi ở
Da nang
Đây là chém gió mà bác, nhất là chém gió Ô ép lắm khi gặp phải một tay tổ chuyên gia nhưng toàn đặt những câu hỏi ngớ ngẩn để anh em ta phải nghĩ. Đấy cũng là một cách dạy dỗ đó!

Thường bọn khôn ngoan thật sự họ không rảnh chém gió. Có một bọn khôn ngoan giả dốt để chém gió ra việc. Còn lại là một bọn hùng hồn rổn rảng thì đa số là bọn dốt, đặc biệt dốt nhất trong những thằng dốt là bọn không biết là mình không biết cái gì. Thành thử cái gì cũng tỏ ra là biết. Như em chả hạn.
Em dốt thật đấy cụ ạ. Lại lười đọc nữa. Thực sự cảm ơn các cụ giải đáp các thắc mắc.
 

Tlbooks

Xe tăng
Biển số
OF-68488
Ngày cấp bằng
16/7/10
Số km
1,159
Động cơ
530,565 Mã lực
Bác hỏi câu này thì em chịu, em chưa từng đọc thấy chỗ nào giảng về mục đích của các ngài khi phát triển lý luận Duy Thức. Nếu ý kiến cá nhân thì em giả định đó là sự cần thiết đào sâu tri thức để phát triển nền tảng lý luận, làm cơ sở để tu hành cho tinh tấn. Như em biết, đông tây triết luận có 3 ngành Duy tâm thì Duy thức là một ngành rất lớn chủ cho triết đông. Thành tựu Vĩ đại đó!
Em nhớ thoạt đầu khi đọc "Phật giáo tư tưởng luận" của bác sĩ Taiken do Cụ Quảng Độ dịch, có đoạn kể về quá trình xây dựng lý luận Duy Thức đưa ra ví dụ thời đó ở Ấn Độ có một loại bệnh về mắt mà ai bị thì nhìn cái gì màu đỏ cũng ra vàng khè. Những người lớn mới mắc thì họ biết cái gì vốn đỏ nay thành vàng nhưng người bị từ bé thì vàng tất. Câu hỏi đặt ra là vậy vàng hãy đỏ là do tự nó thế hay người mình nhận thấy thế? Thế là ngành Duy Thức ra đời.
Duy Thức Tông – còn gọi là Pháp Tướng Tông – không phải tự nhiên mà xuất hiện như một nhánh độc lập trong lòng Phật giáo Đại thừa. Nó không phải một ý tưởng vụn vặt hay phát kiến triết học đơn lẻ, mà là một phản ứng mang tính hệ thống của Phật giáo trước hoàn cảnh lịch sử, xã hội và triết học cụ thể vào khoảng thế kỷ thứ IV đến V sau Công nguyên tại Ấn Độ. Thời kỳ này, triết học Ấn Độ nói chung và Phật giáo nói riêng đã đạt đến độ phát triển cực kỳ tinh vi. Các trường phái Bà La Môn như Số Luận (Sāṃkhya), Du Già (Yoga), Thắng Luận (Vaiśeṣika), và đặc biệt là hệ thống logic Nyāya đã xây dựng nên những nền tảng lý luận rất chặt chẽ để lý giải thế giới, con người, và con đường giải thoát. Phật giáo không thể đứng ngoài cuộc chơi đó. Đặc biệt, sau khi tư tưởng Trung Quán của Long Thọ nổi lên với lập trường “tánh không” và “trung đạo”, một khoảng trống mới xuất hiện: nếu tất cả các pháp đều không có tự tính, thì cái gì đang vận hành, đang mê lầm, và cần được giải thoát? Nếu không có thực thể nào tồn tại, vậy tu hành là chuyển hóa cái gì, và ai là người giác ngộ?

Trong bối cảnh ấy, Duy Thức Tông ra đời không như một sự phủ định mà như một sự tiếp nối tất yếu, nhằm làm rõ cấu trúc vận hành của tâm thức – cái gốc của mê lầm cũng như cái nền của giải thoát. Các luận sư như Vô Trước và Thế Thân không đưa ra một hệ thống đối lập với Trung Quán, mà bổ sung bằng cách cung cấp một mô hình tâm lý học và nhận thức luận cực kỳ tinh vi. Tư tưởng cốt lõi của Duy Thức là “vạn pháp duy thức” – tức mọi hiện tượng trong thế giới mà ta nhận biết được đều là biểu hiện của tâm thức. Không có thế giới nào tồn tại độc lập bên ngoài chủ thể nhận thức; tất cả những gì ta thấy, nghe, nghĩ, tưởng… đều đã bị khúc xạ qua bộ máy tâm lý chủ quan. Nói cách khác, thế giới mà ta tưởng là "khách quan" thực chất là một hình ảnh đã qua xử lý của tâm. Ví dụ nổi tiếng trong các luận thư Duy Thức là trường hợp người bị bệnh về mắt: họ nhìn vật đỏ thành vàng. Người khỏe biết đó là hiện tượng sai lệch, nhưng nếu người ấy bị từ nhỏ, họ sẽ tin rằng màu vàng mới là thật. Vậy “thật” nằm ở đâu? Câu hỏi đó chính là khởi điểm của tư duy Duy Thức.

Hệ thống tám thức được xây dựng để lý giải toàn bộ tiến trình này – từ cảm giác thô sơ cho đến những rung động vi tế nhất của tâm. Trong đó, A-lại-da thức (thức thứ tám) đóng vai trò là “tàng thức” – nơi chứa toàn bộ chủng tử, tức các hạt giống của nghiệp, ký ức, thói quen và nhận thức. Mạt-na thức (thức thứ bảy) là dòng ý niệm bám chặt vào khái niệm “ta”, từ đó làm cơ sở cho sự phân biệt giữa “ngã” và “phi ngã”. Sáu thức còn lại là các kênh tiếp xúc với thế giới (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) – nhưng tất cả đều không thoát khỏi ảnh hưởng của thức tàng và tập khí. Mọi tri giác đều là phản ánh chủ quan, không có gì “nguyên sơ” hay “khách quan” hoàn toàn.

Như vậy, lý do sâu xa khiến Duy Thức Tông ra đời là để giải quyết khủng hoảng nhận thức: nếu tất cả đều là vọng tưởng, thì đâu là thực? Duy Thức không trả lời bằng niềm tin, mà bằng một hệ hình phân tích rõ ràng, đủ để hành giả nhìn lại chính mình như đang xem một cỗ máy vận hành – thấy rõ từng mắt xích của vô minh, tập khí, chấp ngã, phân biệt, khổ đau... Và từ đó, thực hành chuyển thức thành trí – biến A-lại-da thành Đại viên cảnh trí, Mạt-na thành Bình đẳng tánh trí, v.v. Không phải đợi đến sau khi chết mới mong giải thoát, mà ngay trong từng sát-na tâm thức, hành giả đã có thể quan sát và chuyển hóa.
 

Tlbooks

Xe tăng
Biển số
OF-68488
Ngày cấp bằng
16/7/10
Số km
1,159
Động cơ
530,565 Mã lực
Điều thú vị là nhiều tư tưởng của Duy Thức Tông – tưởng như chỉ mang tính triết học hoặc tôn giáo – lại có những điểm gần gũi đáng kinh ngạc với khoa học hiện đại, đặc biệt là vật lý lượng tử và vũ trụ học.

Một trong những nguyên lý nổi bật của Duy Thức là: thế giới không tồn tại độc lập ngoài tâm thức. Những gì ta thấy, nghe, nhận biết đều là kết quả của quá trình nhận thức – chịu ảnh hưởng bởi nghiệp, tập khí và các chủng tử nằm sâu trong tàng thức. Cái gọi là “thực tại khách quan” thật ra chỉ là một hiện tượng được tạo ra bởi tâm.

Điều này nghe có vẻ trừu tượng, nhưng lại có sự tương đồng rõ ràng với các nguyên lý trong vật lý lượng tử. Ví dụ, trong thí nghiệm hai khe hở, khi một hạt như electron đi qua hai khe, nó có thể hành xử như sóng hoặc hạt – tùy thuộc vào việc có người quan sát hay không. Nếu không ai quan sát, nó tồn tại ở dạng xác suất, chưa cố định. Nhưng khi có thiết bị đo, nó “chọn” một trạng thái cụ thể. Nói cách khác: chỉ khi có quan sát, hiện tượng mới hình thành. Không có người quan sát, không có “thực tại” rõ ràng.

Đây là điểm gặp gỡ thú vị giữa Duy Thức và vật lý lượng tử: cả hai đều cho rằng nhận thức không chỉ phản ánh thế giới, mà còn tham gia tạo nên thế giới. Duy Thức gọi đó là “biến hiện của thức”, khoa học gọi là “sự phụ thuộc vào phép đo”.

Thậm chí, trong mô hình Vũ trụ Toàn Ký (Holographic Universe), các nhà vật lý cho rằng mọi thông tin của vũ trụ có thể được mã hóa trên một bề mặt hai chiều – từ đó tạo ra thế giới ba chiều mà ta trải nghiệm. Nghe qua, điều này rất gần với cách Duy Thức giải thích về thế giới hiện tượng: chỉ là biểu hiện tạm thời, không có tự tính, như ảnh trong gương, như giấc mơ – đều do tâm biến hiện.

Cũng tương tự như trong Duy Thức, vũ trụ lượng tử hiện đại không chấp nhận ý tưởng về một “thực tại tuyệt đối, khách quan” nằm ngoài nhận thức. Các nhà khoa học như John Wheeler từng nói: vũ trụ là một quá trình cần sự tham gia của người quan sát, không ai đứng ngoài cuộc.

Tuy Duy Thức không phải là khoa học, và các luận sư xưa không làm thí nghiệm trong phòng lab, nhưng những gì họ khám phá qua thiền định và phân tích tâm thức lại rất gần với những kết luận mà khoa học đang lần tìm qua phương trình và thực nghiệm. Cả hai – bằng hai con đường khác nhau – đều hướng đến một sự thật chung: thế giới không thể tách rời khỏi người đang nhận biết nó.
 

belo

Xe điện
Biển số
OF-76592
Ngày cấp bằng
29/10/10
Số km
3,636
Động cơ
815,278 Mã lực
Nơi ở
Da nang
Muốn vod cụ mà máy nó gato, không cho. Con người chẳng thể là vật chất như gỗ đá dưới chân cũng chẳng thuần ý thức lơ lửng mông lung, bao năm nay đã thế. Là thực thể độc lập tồn tại between the lines, có đủ nước lửa đất khí của xác phàm và cái tâm thức 8 tầng tư duy … và cái gì hợp lý thì tồn tại.
Tính rối rắm của lý thuyết chẳng qua là sự bất lực của ngôn từ khi diễn đạt cái tự nhiên.
Giờ em thấy lại thấy người ta thêm một số giác quan nữa rồi cụ.
Thêm 3 cái:
- Giác quan về không gian: tiền đình
- Giác quan về cơ duỗi cơ khớp
- Nội cảm quan: giác quan về đói, khát, thiếu ô xy..
Cái nội cảm quan khá hay, cũng là một yếu tố gây ra tham.
 
Chỉnh sửa cuối:

Trục

Xe ngựa
Biển số
OF-36688
Ngày cấp bằng
6/6/06
Số km
27,034
Động cơ
796,838 Mã lực
Giờ em thấy lại thêm một số giác quan nữa rồi cụ.
Thêm 3 cái:
- Giác quan về không gian: tiền đình
- Giác quan về cơ duỗi cơ khớp
- Nội cảm quan: giác quan về đói, khát, thiếu ô xy..
Cái nội cảm quan khá hay, cũng là một yếu tố gây ra tham.
Em thì nghĩ rằng Tham là một định nghĩa: khi bạn thu hái, săn bắn quá nhu cầu sử dụng thì mới gọi là tham.
Khi quá nhu cầu thì phần dư ra có thể sẽ bị hỏng, có thể làm cho người đến sau không còn để dùng.
Cá nhân em thì cứ thấy phù hợp là được, ví dụ, con người là loài ăn tạp, nên sẽ ăn mọi thứ mình có thể kiếm được, không từ chối và cũng không ăn một thứ quá nhu cầu.
Em xem các loạt phóng sự về nhóm người cổ xưa thì họ sống rất hòa hợp và gìn giữ tự nhiên, như người Kogi ở Colombia là một điển hình. Họ là bộ lạc nhưng lại có triết lý, sống văn minh.
 

belo

Xe điện
Biển số
OF-76592
Ngày cấp bằng
29/10/10
Số km
3,636
Động cơ
815,278 Mã lực
Nơi ở
Da nang
Em thì nghĩ rằng Tham là một định nghĩa: khi bạn thu hái, săn bắn quá nhu cầu sử dụng thì mới gọi là tham.
Khi quá nhu cầu thì phần dư ra có thể sẽ bị hỏng, có thể làm cho người đến sau không còn để dùng.
Cá nhân em thì cứ thấy phù hợp là được, ví dụ, con người là loài ăn tạp, nên sẽ ăn mọi thứ mình có thể kiếm được, không từ chối và cũng không ăn một thứ quá nhu cầu.
Em xem các loạt phóng sự về nhóm người cổ xưa thì họ sống rất hòa hợp và gìn giữ tự nhiên, như người Kogi ở Colombia là một điển hình. Họ là bộ lạc nhưng lại có triết lý, sống văn minh.
Đói, khát sinh ra ý thức để dành, dự phòng ấy cụ. Cơ bản do sinh tồn cả. Thiếu hụt tài nguyên, sinh ra dự trữ, rồi tham, rồi thành tính cách cá thể, quần thể, dân tộc. Ví dụ: dân Do thái sống ở vùng đó, rất thiếu tài nguyên, nên sinh ra tính cách ham tích trữ, đứng ở vị trí thuận lợi cho buôn bán trao đổi, nên thạo món kinh doanh. Dân Viking cũng ham tích trữ, nhưng ở vị trí đó, thì chỉ có đi ăn cướp, nên thạo món đánh đấm.
 

XPQ

Xe ba gác
Biển số
OF-25733
Ngày cấp bằng
13/12/08
Số km
20,010
Động cơ
587,187 Mã lực
Nơi ở
Trỏng
Duy Thức Tông – còn gọi là Pháp Tướng Tông – không phải tự nhiên mà xuất hiện như một nhánh độc lập trong lòng Phật giáo Đại thừa. Nó không phải một ý tưởng vụn vặt hay phát kiến triết học đơn lẻ, mà là một phản ứng mang tính hệ thống của Phật giáo trước hoàn cảnh lịch sử, xã hội và triết học cụ thể vào khoảng thế kỷ thứ IV đến V sau Công nguyên tại Ấn Độ. Thời kỳ này, triết học Ấn Độ nói chung và Phật giáo nói riêng đã đạt đến độ phát triển cực kỳ tinh vi. Các trường phái Bà La Môn như Số Luận (Sāṃkhya), Du Già (Yoga), Thắng Luận (Vaiśeṣika), và đặc biệt là hệ thống logic Nyāya đã xây dựng nên những nền tảng lý luận rất chặt chẽ để lý giải thế giới, con người, và con đường giải thoát. Phật giáo không thể đứng ngoài cuộc chơi đó. Đặc biệt, sau khi tư tưởng Trung Quán của Long Thọ nổi lên với lập trường “tánh không” và “trung đạo”, một khoảng trống mới xuất hiện: nếu tất cả các pháp đều không có tự tính, thì cái gì đang vận hành, đang mê lầm, và cần được giải thoát? Nếu không có thực thể nào tồn tại, vậy tu hành là chuyển hóa cái gì, và ai là người giác ngộ?

Trong bối cảnh ấy, Duy Thức Tông ra đời không như một sự phủ định mà như một sự tiếp nối tất yếu, nhằm làm rõ cấu trúc vận hành của tâm thức – cái gốc của mê lầm cũng như cái nền của giải thoát. Các luận sư như Vô Trước và Thế Thân không đưa ra một hệ thống đối lập với Trung Quán, mà bổ sung bằng cách cung cấp một mô hình tâm lý học và nhận thức luận cực kỳ tinh vi. Tư tưởng cốt lõi của Duy Thức là “vạn pháp duy thức” – tức mọi hiện tượng trong thế giới mà ta nhận biết được đều là biểu hiện của tâm thức. Không có thế giới nào tồn tại độc lập bên ngoài chủ thể nhận thức; tất cả những gì ta thấy, nghe, nghĩ, tưởng… đều đã bị khúc xạ qua bộ máy tâm lý chủ quan. Nói cách khác, thế giới mà ta tưởng là "khách quan" thực chất là một hình ảnh đã qua xử lý của tâm. Ví dụ nổi tiếng trong các luận thư Duy Thức là trường hợp người bị bệnh về mắt: họ nhìn vật đỏ thành vàng. Người khỏe biết đó là hiện tượng sai lệch, nhưng nếu người ấy bị từ nhỏ, họ sẽ tin rằng màu vàng mới là thật. Vậy “thật” nằm ở đâu? Câu hỏi đó chính là khởi điểm của tư duy Duy Thức.

Hệ thống tám thức được xây dựng để lý giải toàn bộ tiến trình này – từ cảm giác thô sơ cho đến những rung động vi tế nhất của tâm. Trong đó, A-lại-da thức (thức thứ tám) đóng vai trò là “tàng thức” – nơi chứa toàn bộ chủng tử, tức các hạt giống của nghiệp, ký ức, thói quen và nhận thức. Mạt-na thức (thức thứ bảy) là dòng ý niệm bám chặt vào khái niệm “ta”, từ đó làm cơ sở cho sự phân biệt giữa “ngã” và “phi ngã”. Sáu thức còn lại là các kênh tiếp xúc với thế giới (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) – nhưng tất cả đều không thoát khỏi ảnh hưởng của thức tàng và tập khí. Mọi tri giác đều là phản ánh chủ quan, không có gì “nguyên sơ” hay “khách quan” hoàn toàn.

Như vậy, lý do sâu xa khiến Duy Thức Tông ra đời là để giải quyết khủng hoảng nhận thức: nếu tất cả đều là vọng tưởng, thì đâu là thực? Duy Thức không trả lời bằng niềm tin, mà bằng một hệ hình phân tích rõ ràng, đủ để hành giả nhìn lại chính mình như đang xem một cỗ máy vận hành – thấy rõ từng mắt xích của vô minh, tập khí, chấp ngã, phân biệt, khổ đau... Và từ đó, thực hành chuyển thức thành trí – biến A-lại-da thành Đại viên cảnh trí, Mạt-na thành Bình đẳng tánh trí, v.v. Không phải đợi đến sau khi chết mới mong giải thoát, mà ngay trong từng sát-na tâm thức, hành giả đã có thể quan sát và chuyển hóa.
Bác thật uyên thâm. Cảm ơn bác đã giảng.
Ti diên, đoạn lượng tử ....các cái thì không nên ghép vào đây. Nó không có cơ sở và không cùng hệ quy chiếu, dễ rơi vào ngụy biện.
 

Trục

Xe ngựa
Biển số
OF-36688
Ngày cấp bằng
6/6/06
Số km
27,034
Động cơ
796,838 Mã lực
Đói, khát sinh ra ý thức để dành, dự phòng ấy cụ. Cơ bản do sinh tồn cả. Thiếu hụt tài nguyên, sinh ra dự trữ, rồi tham, rồi thành tính cách cá thể, quần thể, dân tộc. Ví dụ: dân Do thái sống ở vùng đó, rất thiếu tài nguyên, nên sinh ra tính cách ham tích trữ, đứng ở vị trí thuận lợi cho buôn bán trao đổi, nên thạo món kinh doanh. Dân Viking cũng ham tích trữ, nhưng ở vị trí đó, thì chỉ có đi ăn cướp, nên thạo món đánh đấm.
Em hiểu vấn đề cụ đề cập vì bản thân em được học rất nhiều các môn về Xã hội học cũng như Triết học. Tham nó đúng như cụ nói, nó được hình thành bởi ý chí người lãnh đạo, có thể từ thủa sơ khai hình thành nên văn hóa của một vùng đất hoặc được điều chỉnh theo từng nhà lãnh đạo theo các mốc thời gian cụ thể. Bánh xe lịch sử mà, nó lăn đến đâu, văn hóa thay đổi đến đó.
 

Trục

Xe ngựa
Biển số
OF-36688
Ngày cấp bằng
6/6/06
Số km
27,034
Động cơ
796,838 Mã lực
Bác thật uyên thâm. Cảm ơn bác đã giảng.
Ti diên, đoạn lượng tử ....các cái thì không nên ghép vào đây. Nó không có cơ sở và không cùng hệ quy chiếu, dễ rơi vào ngụy biện.
Cụ cứ coi rằng nhánh Khoa học (ví dụ lượng tử) đang nghiên cứu và củng cố lại lý thuyết và thực tế của một kiến thức có từ nền văn minh cổ xưa, họ đang viết lại quá khứ của một nền văn minh siêu việt.
Còn chúng ta thì đang tự học, tự hành và tự kết. Chúng ta đang ở cấp độ dưới khoa học, những thứ ta học được thì đều là bản thiếu khuyết hoặc dị bản. Hiện tại, em tin vào nhóm khoa học hơn vì chỉ có họ mới chứng minh được những triết lý mà cổ xưa để lại.
 
  • Vodka
Reactions: XPQ

XPQ

Xe ba gác
Biển số
OF-25733
Ngày cấp bằng
13/12/08
Số km
20,010
Động cơ
587,187 Mã lực
Nơi ở
Trỏng
Cụ cứ coi rằng nhánh Khoa học (ví dụ lượng tử) đang nghiên cứu và củng cố lại lý thuyết và thực tế của một kiến thức có từ nền văn minh cổ xưa, họ đang viết lại quá khứ của một nền văn minh siêu việt.
Còn chúng ta thì đang tự học, tự hành và tự kết. Chúng ta đang ở cấp độ dưới khoa học, những thứ ta học được thì đều là bản thiếu khuyết hoặc dị bản. Hiện tại, em tin vào nhóm khoa học hơn vì chỉ có họ mới chứng minh được những triết lý mà cổ xưa để lại.
Phiêu phiêu thế lại hay. Vì tỉnh rồi cũng say mà say xong ta lại tỉnh. Nhưng nếu thế, khoa học nên thong thả lại để chúng mình còn phiêu cho bền.
 

lạc lối

Xe điện
Biển số
OF-204320
Ngày cấp bằng
31/7/13
Số km
3,314
Động cơ
329,500 Mã lực
Nơi ở
HoChiMinh
Điều thú vị là nhiều tư tưởng của Duy Thức Tông – tưởng như chỉ mang tính triết học hoặc tôn giáo – lại có những điểm gần gũi đáng kinh ngạc với khoa học hiện đại, đặc biệt là vật lý lượng tử và vũ trụ học.

Một trong những nguyên lý nổi bật của Duy Thức là: thế giới không tồn tại độc lập ngoài tâm thức. Những gì ta thấy, nghe, nhận biết đều là kết quả của quá trình nhận thức – chịu ảnh hưởng bởi nghiệp, tập khí và các chủng tử nằm sâu trong tàng thức. Cái gọi là “thực tại khách quan” thật ra chỉ là một hiện tượng được tạo ra bởi tâm.

Điều này nghe có vẻ trừu tượng, nhưng lại có sự tương đồng rõ ràng với các nguyên lý trong vật lý lượng tử. Ví dụ, trong thí nghiệm hai khe hở, khi một hạt như electron đi qua hai khe, nó có thể hành xử như sóng hoặc hạt – tùy thuộc vào việc có người quan sát hay không. Nếu không ai quan sát, nó tồn tại ở dạng xác suất, chưa cố định. Nhưng khi có thiết bị đo, nó “chọn” một trạng thái cụ thể. Nói cách khác: chỉ khi có quan sát, hiện tượng mới hình thành. Không có người quan sát, không có “thực tại” rõ ràng.

Đây là điểm gặp gỡ thú vị giữa Duy Thức và vật lý lượng tử: cả hai đều cho rằng nhận thức không chỉ phản ánh thế giới, mà còn tham gia tạo nên thế giới. Duy Thức gọi đó là “biến hiện của thức”, khoa học gọi là “sự phụ thuộc vào phép đo”.

Thậm chí, trong mô hình Vũ trụ Toàn Ký (Holographic Universe), các nhà vật lý cho rằng mọi thông tin của vũ trụ có thể được mã hóa trên một bề mặt hai chiều – từ đó tạo ra thế giới ba chiều mà ta trải nghiệm. Nghe qua, điều này rất gần với cách Duy Thức giải thích về thế giới hiện tượng: chỉ là biểu hiện tạm thời, không có tự tính, như ảnh trong gương, như giấc mơ – đều do tâm biến hiện.

Cũng tương tự như trong Duy Thức, vũ trụ lượng tử hiện đại không chấp nhận ý tưởng về một “thực tại tuyệt đối, khách quan” nằm ngoài nhận thức. Các nhà khoa học như John Wheeler từng nói: vũ trụ là một quá trình cần sự tham gia của người quan sát, không ai đứng ngoài cuộc.

Tuy Duy Thức không phải là khoa học, và các luận sư xưa không làm thí nghiệm trong phòng lab, nhưng những gì họ khám phá qua thiền định và phân tích tâm thức lại rất gần với những kết luận mà khoa học đang lần tìm qua phương trình và thực nghiệm. Cả hai – bằng hai con đường khác nhau – đều hướng đến một sự thật chung: thế giới không thể tách rời khỏi người đang nhận biết nó.
Cụ rất hay, tuy nhiên đó vẫn trên phương diện lý thuyết và chỉ làm người đọc thêm khó hiểu , kể cụ có những dẫn chứng liên hệ với thực tế thì tốt , như em đọc cụ xong là e cũng hoảng loạn luôn
 
Thông tin thớt
Đang tải
Top